NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ ĐÀN CHIÊN
Tin Mừng Chúa Nhật IV
năm A ( Ga.10:1-10) nói về dụ ngôn người
chăn chiên. Chủ đề chính của Chúa nhật này là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Chúa Giêsu đã xác
nhận: “ Ta là mục tử tốt lành” và “ Ta là cửa chuồng chiên.” Còn người chăn
chiên thuê, những kẻ trộm chiên là ai? Ai là những con chiên đích thực? Đó là
những nhân vật, những biểu tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Dụ ngôn về
Đấng Chăn Chiên Lành.
Phẩm chất của người chăn chiên lành là gì?
¨
luôn đi
sát đàn chiên: “kẻ ấy đi trước và chiên theo sau” ( câu 4)
¨
biết tên
từng con chiên: “gọi đích danh từng con chiên mình” ( c.3)
¨
cho chiên
“được sống và sống dồi dào” (c. 10 )
¨
“thí mạng
sống vì con chiên” ( c.11)
¨
là người
chăn chiên chính danh, đường đường chính chính từ cửa mà vào, không trèo tường
đi vào lối khác như những tên trộm “tìm đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá
hủy” ( c.10), hay như người chăn chiên thuê, vì không phải là chiên của họ, nên
khi thấy sói rừng đến, họ bỏ chiên mà trốn mặc cho sói bắt chiên và làm cho đàn
chiên chạy tản mác.
Hình ảnh người mục tử nhân hậu ấy là
ai? Đó là Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng Chăn Chiên Nhân Hậu, là Mục Tử Hiền Lành.
Qua bài Tin Mừng, Chúa
Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa nhân hậu, đầy tình thương, luôn
sát cạnh, đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Người luôn quan phòng và yêu
thương con cái của mình.
Tương quan giữa Thiên
Chúa và con người không phải là tương quan chủ- tớ, đúng hơn là tương quan giữa
cha- con, giữa yêu thương và được yêu thương.
Khác với người chăn
chiên thuê phó mặc “ sống chết mặc bay” hay ba chân bốn cẳng vội vàng chạy trốn
khi thấy sói rừng xuất hiện… người chăn chiên đích thực là một người mục tử
nhân hậu, thương mến đàn chiên, tận tình chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, thỏa mãn
mọi nhu cầu cần thiết, luôn sát cạnh với chúng hằng ngày, và sẵn sàng thí mạng
sống mình vì đàn chiên.
Như người mục tử tốt
lành biết tên từng con chiên, gọi đích danh từng con chiên của mình, Thiên Chúa
biết rõ những khó khăn vất vả, những yếu đuối vấp ngã, những bệnh tật khổ đau,
những ê chề thất vọng của chúng ta… Và Người luôn ở bên chúng ta để an ủi vỗ
về, để nuôi dưỡng bổ sức.
Chúa là người chăn
chiên hiền lành. “ Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ
xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ. Người dẫn tôi đến dòng suối nước trong lành
để nghỉ ngơi, và tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.” ( Tv 22: 1-3)
Thiên Chúa đầy lòng
xót thương chẳng bỏ rơi con chiên nào như hình ảnh người chăn chiên vác trên
vai con chiên bị thương tích, bệnh hoạn..mà đưa về nhà, hay bỏ 99 con chiên
trên núi mà đi tìm con chiên lạc.
Người chăn chiên tốt
lành thì như thế, nhân hậu yêu thương
con chiên và đàn chiên thì như thế, nhưng con chiên và đàn chiên thì sao?
Để được sống yêu thương và được đùm bọc chở che, nuôi dưỡng, con chiên và
đàn chiên phải:
-
biết ai là người chăn dắt chúng, biết nghe theo tiếng người chăn chiên. (câu 3)
- luôn theo sau người chăn chiên, vì chúng quen tiếng người
ấy và biết trốn đi khi nghe tiếng người
lạ. ( c. 5)
-
biết tin tưởng, phó thác vào sự hướng dẫn của người chăn chiên.
Chúa đã phán rằng : “…
Ta biết chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta.”( Ga 10 :14). Chúa biết chúng ta,
chuyện đó đã đành rồi. Còn chúng ta, chúng ta biết Chúa thế nào?
Khi lãnh nhận Bí Tích
Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành con chiên của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về
một đàn chiên là Giáo Hội như Thánh Phêrô đã noi trong thư thứ 1 ( 1 Pr 2 : 25)
: « Xưa kia, anh em như những con chiên
lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn
anh em. » Lắng nghe, thực thi Lời Chúa,
tuân giữ những điều Giáo Hội truyền dạy là chúng ta nghe biết tiếng của người
chăn chiên, là đi theo sự hướng dẫn của đức tin, đức cậy và đức mến. Vì « Người dẫn tôi qua những con đường đoan
chính, vì danh dự của Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc
nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điền an ủi lòng
tôi. » ( Tv 22 : 3-4)
Tin tưởng, phó thác
vào tình thương của Chúa khiến chúng ta an lòng. Chúng ta phải luôn cảnh giác:
Mấy tên trộm chiên đang quan sát, rình mò. Từ xa, cả một đàn chiên béo tốt. Có
những con đang ăn cỏ, có những con đang nằm nghỉ, có những con đang nghịch ngợm
đùa giỡn với nhau. Một cảnh thanh bình! Chúng đang tìm cách đến gần, chờ đợi cơ
hội có con chiên nào đó muốn tách ra khỏi đàn, muốn chạy nhảy theo sở thích
riêng để tóm lấy.
Điểm tựa cho cuộc sống
chúng ta là: “ Ta chính là mục tử nhân lành. Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết
Ta. ( Ga 10: 14). Là Mục tử nhân lành, Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên.” ( Ga 10: 11)
Sống theo đàn, nghe
biết tiếng người chăn chiên, theo sau người chăn chiên, tránh xa tiếng kêu gọi
của người lạ là sống trong lòng Giáo Hội, sống theo Tin Mừng, là chết đi cho
con người tội lỗi để theo chân người chăn chiên đi vào Cửa Chuồng Chiên là Chúa
Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. «
Chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ
giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết
thương của Người, anh em đã được chữa lành. » (1 Pr. 2 :24)
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin dẫn đưa chúng con
đến cộng đồng đang hưởng vui mừng trên trời, để đoàn chiên khiêm tốn được tới nơi
mà Đấng chăn chiên hùng mạnh đã đến. Xin cho chúng con vững tin vào lòng nhân
từ và ân sủng của Chúa trong suốt cả cuộc sống chúng con và tin rằng Chúa chăn nuôi chúng con, chúng con
chẳng thiếu tốn chi !
********
CỬA CHUỒNG CHIÊN
Mở đầu Tin Mừng Chúa
nhật IV, Mùa Phục sinh, năm A, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai không qua cửa mà vào
chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua
cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên.” (Ga 10 : 1-2) Và Chúa Giêsu nói thêm: “ Ta
là cửa chuồng chiên… Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào
và tìm thấy của nuôi thân.” (Ga 10: 7-9). Tại sao Chúa ví mình là Cửa chuồng
chiên? Ai không qua cửa ấy mà vào, là trộm cướp. Ai qua cửa mà vào, thì được
cứu rỗi, tìm được của nuôi thân.
Cửa chuồng chiên là
cửa dành cho người chăn chiên và chiên ra vào. Chỉ có người chăn chiên đích
thực mới được người giữ cửa mở cho ra vào. Chiên nghe theo tiếng người ấy. Người
chăn chiên gọi đích danh từng con chiên và dẫn ra. Người chăn chiên đi trước và
đàn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người chăn chiên, và trốn chạy khi nghe
tiếng người lạ.
Cửa chuồng chiên ấy là Adam mới, là Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế gian mang thân phận yếu
hèn của con người, đã giang hai tay trên cây Thánh giá, đã chết đối với tội lỗi, đã phục sinh, và nay Người
sống, là sống cho Thiên Chúa. “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi
người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công
chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghiã là được
sống,” (Rm. 5: 18). Để trở nên công chính, để được người chăn chiên dẫn qua cửa
chuồng chiên, chúng ta cũng phải đóng đinh con người cũ do tội lỗi thống trị để
không còn làm nô lệ tội lỗi nữa,
Cửa chuồng chiên ấy là Bí Tích Thanh Tẩy mà chúng ta đã đón nhận để trở thành con Thiên Chúa, như
trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 6: 3-4), Thánh Phao lô đã viết: “ Anh em không
biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh thẩy, để thuộc về Chúa Giêsu
Kitô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng
ta cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ
cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một
đời sống mới.”
Cửa chuồng chiên ấy là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Cũng như Thánh Phaolô viết trong thư thứ 1 gửi tín hữu
Rôma (Rm. 8: 38 -39), chúng ta cũng tin chắc rằng: “ cho dầu là sự chết hay sự
sống, thiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức
mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ loài thọ tạo nào khác, không có gì
tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta.”
Cửa chuồng chiên ấy là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô. Con chiên không có Thần Khí, không được làm con Thiên
Chúa, không thuộc về Chúa Kitô, không thể đi qua cửa chuồng chiên. “ Ai sống
theo tính xác thịt, thì hưóng về những gì thuộc tính xác thịt; còn ai sống theo
Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí.” (Rm. 8:5)
Cửa chuồng chiên ấy là Tin Mừng cứu độ. Người chăn chiên biết từng con chiên và ngược lại, từng
con chiên biết người chăn chiên. Làm sao để biết chủ chăn của mình? Qua Kinh
Thánh, nhất là Tin Mừng, chúng ta biết người chăn chiên ấy; và chúng ta sẽ biết
rõ người chăn chiên ấy hơn khi chúng ta biết sống gần gủi và thân mật hơn với
các chiên khác trong cùng đàn chiên.
Cửa chuồng chiên ấy là cửa công chính, cửa lòng tin, là Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Công Chính. Chúng ta được “
Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô… nhờ ân huệ
của Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Chúa
Giêsu Kitô.” (Rm. 3: 22-23)
Cửa chuồng chiên ấy là Hội Thánh Chúa. Khi dùng dụ ngôn này và tự cho mình là chuồng chiên,
Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng cánh cửa ấy luôn mở rộng, đón mời hết mọi người.
Không qua cánh cửa Giáo Hội, là chúng ta không thuộc đàn chiên của Chúa, không
được Người bảo vệ, chở che; và như thế là làm mồi ngon cho kẻ trộm hay sói
rừng. Đàn chiên con và chiên mẹ đã được Chúa giao phó cho Thánh Phêrô cai quản.
Xét theo tính cách làm
chiên, là Kitô hữu, chúng ta phải có những nhiệm vụ và hưởng được những đặc ân
như sau :
- được
người chăn chiên biết đến, được gọi đích danh từng con chiên một, được nuôi dưỡng
nơi bàn Tiệc Thánh Thể. Chúa Giêsu Tử Nạn- Phục Sinh là nguồn cứu độ cho toàn
thể nhân loại, cho từng con người. Người muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng
người một. Chúng ta sẽ phải làm gì để dáp lại Lòng Thương Xót vô bờ ấy? chúng
ta đã biết gì về người chăn chiên nhân hậu ấy?
- được
người chăn chiên gọi đích danh; nhưng chúng ta có đáp lại lời kêu gọi ấy không?
hay đáp lại ở mức độ nào? Bổn phận của chúng ta là biết tiếng gọi của chủ chăn.
Chỉ một tiếng thôi là tiếng Giêsu. Không có tiếng nào khác để chiên nghe theo
mà được yên ổn, an vui, sống mạnh và sống hạnh phúc.
- được
chủ chăn bảo vệ. Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu đã lấy mạng sống mình để
bảo vệ, để cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi cái chết hủy diệt để đưa chúng
ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu. Chúng ta có chịu để cho Chúa bảo vệ hay lại
đi tìm những chỗ dựa khác như tiền tài, danh vọng, quyền lực, tiện nghi vật
chất...? Chúng ta có vểnh tai mà nghe tiếng chủ chăn gọi để chạy đến với Người
liền hay thích nghe theo tiếng gọi của xác thịt, của tội lỗi ? Thích lang thang
phiêu du vào những cuộc mạo hiểm trần gian tuy vẫn biết sói rừng đang rình rập,
kẻ trộm là tội lỗi, xác thịt, ý riêng, ghen ghét đang gài bẩy ?
-
biết phân biệt tiếng người lạ, tiếng người chăn thuê với tiếng đích thực của người
chủ chăn. Với người chăn thuê, họ sẽ chạy trốn khi sói rừng xuất hiện, mặc cho
đàn chiên tản mác. Họ không thí mạng sống vì đàn chiên, vi đàn chiên không
thuộc về họ.
-
biết sống liên kết với các chiên khác. Chúng ta có thái độ nào khi cùng các
chiên khác đang gặm cỏ trên đồng? Đố kỵ hay thân thiện? Nhường nhịn chia sẻ hay
ganh ghét tranh phần? Thương yêu hay hận thù? Tiếp đón, giúp đỡ hay làm ngơ bỏ
mặc? Cộng tác hay dửng dưng? Đối thoại hay khép kín?
Lạy Chúa, xin cho chúng con an tâm làm bổn phận Chúa đã
giao phó, vì Chúa luôn ở bên chúng con để đáp ứng cho chúng con mọi nhu cầu
khác. Xin biến đổi chúng con để từ nay chi biết lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi,
dù có mãi mê gặm cỏ đâu đâu, cũng biết chạy về ngay với Chủ Chăn của mình