Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Nghe Nhạc Thánh Ca trên điện thoại android
Bài suy niệm, chia sẻ
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-NĂM A: CHÚA CHIÊN LÀNH
Video Youtube

 
NGƯỜI CHĂN CHIÊN VÀ ĐÀN CHIÊN

Tin Mừng Chúa Nhật IV năm A  ( Ga.10:1-10) nói về dụ ngôn người chăn chiên. Chủ đề chính của Chúa nhật này là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Chúa Giêsu đã xác nhận: “ Ta là mục tử tốt lành” và “ Ta là cửa chuồng chiên.” Còn người chăn chiên thuê, những kẻ trộm chiên là ai? Ai là những con chiên đích thực? Đó là những nhân vật, những biểu tượng được Chúa Giêsu nói đến trong bài Dụ ngôn về Đấng Chăn Chiên Lành.

Phẩm chất của người chăn chiên lành là gì?

¨        luôn đi sát đàn chiên: “kẻ ấy đi trước và chiên theo sau” ( câu 4)
¨        biết tên từng con chiên: “gọi đích danh từng con chiên mình” ( c.3)
¨        cho chiên “được sống và sống dồi dào” (c. 10 )
¨        “thí mạng sống vì con chiên” ( c.11)
¨        là người chăn chiên chính danh, đường đường chính chính từ cửa mà vào, không trèo tường đi vào lối khác như những tên trộm “tìm đến chỉ để ăn trộm, để sát hại và phá hủy” ( c.10), hay như người chăn chiên thuê, vì không phải là chiên của họ, nên khi thấy sói rừng đến, họ bỏ chiên mà trốn mặc cho sói bắt chiên và làm cho đàn chiên chạy tản mác.

Hình ảnh người  mục tử nhân hậu ấy là ai? Đó là Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng Chăn Chiên Nhân Hậu, là Mục Tử Hiền Lành.

Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa nhân hậu, đầy tình thương, luôn sát cạnh, đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Người luôn quan phòng và yêu thương con cái của mình.
Tương quan giữa Thiên Chúa và con người không phải là tương quan chủ- tớ, đúng hơn là tương quan giữa cha- con, giữa yêu thương và được yêu thương.
Khác với người chăn chiên thuê phó mặc “ sống chết mặc bay” hay ba chân bốn cẳng vội vàng chạy trốn khi thấy sói rừng xuất hiện… người chăn chiên đích thực là một người mục tử nhân hậu, thương mến đàn chiên, tận tình chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, thỏa mãn mọi nhu cầu cần thiết, luôn sát cạnh với chúng hằng ngày, và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.
Như người mục tử tốt lành biết tên từng con chiên, gọi đích danh từng con chiên của mình, Thiên Chúa biết rõ những khó khăn vất vả, những yếu đuối vấp ngã, những bệnh tật khổ đau, những ê chề thất vọng của chúng ta… Và Người luôn ở bên chúng ta để an ủi vỗ về, để nuôi dưỡng bổ sức.
Chúa là người chăn chiên hiền lành. “ Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trên đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ. Người dẫn tôi đến dòng suối nước trong lành để nghỉ ngơi, và tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.” ( Tv 22: 1-3)
Thiên Chúa đầy lòng xót thương chẳng bỏ rơi con chiên nào như hình ảnh người chăn chiên vác trên vai con chiên bị thương tích, bệnh hoạn..mà đưa về nhà, hay bỏ 99 con chiên trên núi mà đi tìm con chiên lạc.
Người chăn chiên tốt lành thì  như thế, nhân hậu yêu thương con chiên và đàn chiên thì như thế, nhưng con chiên và đàn chiên thì sao?

Để được sống yêu thương và được đùm bọc chở che, nuôi dưỡng, con chiên và đàn chiên phải:

- biết ai là người chăn dắt chúng, biết nghe theo tiếng người chăn chiên. (câu 3)
- luôn theo sau người chăn chiên, vì chúng quen tiếng người ấy và biết trốn đi khi   nghe tiếng người lạ. ( c. 5)
- biết tin tưởng, phó thác vào sự hướng dẫn của người chăn chiên.
Chúa đã phán rằng : “… Ta biết chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta.”( Ga 10 :14). Chúa biết chúng ta, chuyện đó đã đành rồi. Còn chúng ta, chúng ta biết Chúa thế nào?
Khi lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, chúng ta đã trở thành con chiên của Thiên Chúa, chúng ta thuộc về một đàn chiên là Giáo Hội như Thánh Phêrô đã noi trong thư thứ 1 ( 1 Pr 2 : 25) : «  Xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em. »  Lắng nghe, thực thi Lời Chúa, tuân giữ những điều Giáo Hội truyền dạy là chúng ta nghe biết tiếng của người chăn chiên, là đi theo sự hướng dẫn của đức tin, đức cậy và đức mến. Vì  « Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, vì danh dự của Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cây gậy của Người, đó là điền an ủi lòng tôi. » ( Tv 22 : 3-4)
Tin tưởng, phó thác vào tình thương của Chúa khiến chúng ta an lòng. Chúng ta phải luôn cảnh giác: Mấy tên trộm chiên đang quan sát, rình mò. Từ xa, cả một đàn chiên béo tốt. Có những con đang ăn cỏ, có những con đang nằm nghỉ, có những con đang nghịch ngợm đùa giỡn với nhau. Một cảnh thanh bình! Chúng đang tìm cách đến gần, chờ đợi cơ hội có con chiên nào đó muốn tách ra khỏi đàn, muốn chạy nhảy theo sở thích riêng để tóm lấy.
Điểm tựa cho cuộc sống chúng ta là: “ Ta chính là mục tử nhân lành. Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. ( Ga 10: 14). Là Mục tử nhân lành, Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” ( Ga 10: 11)
Sống theo đàn, nghe biết tiếng người chăn chiên, theo sau người chăn chiên, tránh xa tiếng kêu gọi của người lạ là sống trong lòng Giáo Hội, sống theo Tin Mừng, là chết đi cho con người tội lỗi để theo chân người chăn chiên đi vào Cửa Chuồng Chiên là Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại. «  Chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. » (1 Pr. 2 :24)
 
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin dẫn đưa chúng con đến cộng đồng đang hưởng vui mừng trên trời, để đoàn chiên khiêm tốn được tới nơi mà Đấng chăn chiên hùng mạnh đã đến. Xin cho chúng con vững tin vào lòng nhân từ và ân sủng của Chúa trong suốt cả cuộc sống chúng con và tin  rằng Chúa chăn nuôi chúng con, chúng con chẳng thiếu tốn chi !

********

CỬA CHUỒNG CHIÊN

Mở đầu Tin Mừng Chúa nhật IV, Mùa Phục sinh, năm A, Chúa Giêsu đã xác định: “Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên.” (Ga 10 : 1-2) Và Chúa Giêsu nói thêm: “ Ta là cửa chuồng chiên… Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân.” (Ga 10: 7-9). Tại sao Chúa ví mình là Cửa chuồng chiên? Ai không qua cửa ấy mà vào, là trộm cướp. Ai qua cửa mà vào, thì được cứu rỗi, tìm được của nuôi thân.

Cửa chuồng chiên là cửa dành cho người chăn chiên và chiên ra vào. Chỉ có người chăn chiên đích thực mới được người giữ cửa mở cho ra vào. Chiên nghe theo tiếng người ấy. Người chăn chiên gọi đích danh từng con chiên và dẫn ra. Người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người chăn chiên, và trốn chạy khi nghe tiếng người lạ.

Cửa chuồng chiên ấy là Adam mới, là Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế gian mang thân phận yếu hèn của con người, đã giang hai tay trên cây Thánh giá, đã chết  đối với tội lỗi, đã phục sinh, và nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghiã là được sống,” (Rm. 5: 18). Để trở nên công chính, để được người chăn chiên dẫn qua cửa chuồng chiên, chúng ta cũng phải đóng đinh con người cũ do tội lỗi thống trị để không còn làm nô lệ tội lỗi nữa,

Cửa chuồng chiên ấy là Bí Tích Thanh Tẩy mà chúng ta đã đón nhận để trở thành con Thiên Chúa, như trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 6: 3-4), Thánh Phao lô đã viết: “ Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh thẩy, để thuộc về Chúa Giêsu Kitô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì  được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.”

Cửa chuồng chiên ấy là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Cũng như Thánh Phaolô viết trong thư thứ 1 gửi tín hữu Rôma (Rm. 8: 38 -39), chúng ta cũng tin chắc rằng: “ cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

Cửa chuồng chiên ấy là Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô. Con chiên không có Thần Khí, không được làm con Thiên Chúa, không thuộc về Chúa Kitô, không thể đi qua cửa chuồng chiên. “ Ai sống theo tính xác thịt, thì hưóng về những gì thuộc tính xác thịt; còn ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí.” (Rm. 8:5)

Cửa chuồng chiên ấy là Tin Mừng cứu độ. Người chăn chiên biết từng con chiên và ngược lại, từng con chiên biết người chăn chiên. Làm sao để biết chủ chăn của mình? Qua Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, chúng ta biết người chăn chiên ấy; và chúng ta sẽ biết rõ người chăn chiên ấy hơn khi chúng ta biết sống gần gủi và thân mật hơn với các chiên khác trong cùng đàn chiên.

Cửa chuồng chiên ấy là cửa công chính, cửa lòng tin, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Công Chính. Chúng ta được “ Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô… nhờ ân huệ của Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.” (Rm. 3: 22-23)

Cửa chuồng chiên ấy là Hội Thánh Chúa. Khi dùng dụ ngôn này và tự cho mình là chuồng chiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng cánh cửa ấy luôn mở rộng, đón mời hết mọi người. Không qua cánh cửa Giáo Hội, là chúng ta không thuộc đàn chiên của Chúa, không được Người bảo vệ, chở che; và như thế là làm mồi ngon cho kẻ trộm hay sói rừng. Đàn chiên con và chiên mẹ đã được Chúa giao phó cho Thánh Phêrô cai quản.

Xét theo tính cách làm chiên, là Kitô hữu, chúng ta phải có những nhiệm vụ và hưởng được những đặc ân như sau :

- được người chăn chiên biết đến, được gọi đích danh từng con chiên một, được nuôi dưỡng nơi bàn Tiệc Thánh Thể. Chúa Giêsu Tử Nạn- Phục Sinh là nguồn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con người. Người muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng người một. Chúng ta sẽ phải làm gì để dáp lại Lòng Thương Xót vô bờ ấy? chúng ta đã biết gì về người chăn chiên nhân hậu ấy?

- được người chăn chiên gọi đích danh; nhưng chúng ta có đáp lại lời kêu gọi ấy không? hay đáp lại ở mức độ nào? Bổn phận của chúng ta là biết tiếng gọi của chủ chăn. Chỉ một tiếng thôi là tiếng Giêsu. Không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống mạnh và sống hạnh phúc.

- được chủ chăn bảo vệ. Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu đã lấy mạng sống mình để bảo vệ, để cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi cái chết hủy diệt để đưa chúng ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu. Chúng ta có chịu để cho Chúa bảo vệ hay lại đi tìm những chỗ dựa khác như tiền tài, danh vọng, quyền lực, tiện nghi vật chất...? Chúng ta có vểnh tai mà nghe tiếng chủ chăn gọi để chạy đến với Người liền hay thích nghe theo tiếng gọi của xác thịt, của tội lỗi ? Thích lang thang phiêu du vào những cuộc mạo hiểm trần gian tuy vẫn biết sói rừng đang rình rập, kẻ trộm là tội lỗi, xác thịt, ý riêng, ghen ghét đang gài bẩy ?

- biết phân biệt tiếng người lạ, tiếng người chăn thuê với tiếng đích thực của người chủ chăn. Với người chăn thuê, họ sẽ chạy trốn khi sói rừng xuất hiện, mặc cho đàn chiên tản mác. Họ không thí mạng sống vì đàn chiên, vi đàn chiên không thuộc về họ.

- biết sống liên kết với các chiên khác. Chúng ta có thái độ nào khi cùng các chiên khác đang gặm cỏ trên đồng? Đố kỵ hay thân thiện? Nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần? Thương yêu hay hận thù? Tiếp đón, giúp đỡ hay làm ngơ bỏ mặc? Cộng tác hay dửng dưng? Đối thoại hay khép kín?

Lạy Chúa, xin cho chúng con an tâm làm bổn phận Chúa đã giao phó, vì Chúa luôn ở bên chúng con để đáp ứng cho chúng con mọi nhu cầu khác. Xin biến đổi chúng con để từ nay chi biết lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi, dù có mãi mê gặm cỏ đâu đâu, cũng biết chạy về ngay với Chủ Chăn của mình

Linh mục Trịnh Ngọc Danh 
 
 
 
 
 
 
 


 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi