BÀI 9: GIAO TẾ LỊCH SỰ
Lời nói
của anh em hằng phải thanh nhã, mặn mà, ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với
mỗi một người.
(Cl 4, 6)
1/9: Hai người đang nói chuyện với
nhau, mà ta muốn gặp một trong hai
người đó, ta phải xin phép người kia.
2/9: Người trên phải ân cần lắng nghe khi người
dưới muốn nói chuyện với mình, đừng tỏ ra hống hách, bất cần.
3/9: Nên
gọi chính tên của mỗi người, chớ tự đặt
biệt danh để gọi họ. Ví dụ: H. khùng, T.què…
4/9: Khi
muốn thưa chuyện với người trên thì ta nên gọi
chức vụ của họ. Ví dụ: Thưa ông chủ tịch, thưa bác sĩ…
5/9: Nói
với người trên bao giờ cũng tỏ ra tôn kính, như: Dạ, vâng, thưa không, thưa
biết; chứ đừng nói trống: Hả, ừ, biết, không, muốn…hoặc chỉ lắc, gật đầu!
6/9: Khi ngồi trên xe buýt, … ta thấy có người già, trẻ em, phụ nữ mang thai,
người tàn tật, ta nên nhường chỗ ngay.
7/9: Khi
thấy có người già, trẻ em cần qua đường,
ta sẵn sàng giúp họ.
8/9: Ta
phải ngả mũ (nón) khi chào hỏi ai, hoặc
gặp quan tài ngang qua!
9/9: Không nên đùa giỡn, chọc ghẹo người khác
mang tính chất hạ phẩm giá của họ. Ví dụ: “Chị
quá khổ người thế này, sống chi cho chật đất, chật Thiên đàng.”
10/9: Không
ưa ai, ta cũng không được gọi họ là thằng,
nó, con mẹ đó… trái lại, luôn lịch sự dựa trên địa vị, tuổi tác người đó mà nói.
Cụ thể: ông cụ X, chị Z, bà A, …
Cũng không đối thoại với ai bằng cách xưng hô mày tao, mà nên thân mật gọi
nhau bằng anh, chị, em hoặc gọi tên nhau.
11/9: Muốn
bắt tay ai, người dưới phải đợi người trên
đưa tay ra trước.
12/9: Khi
nói chuyện với ai, ta phải nhìn vào mặt ngườiđang nói.
13/9: Phải tôn trọng nhau trước tập thể, dù
ta quá quen thân với họ, nếu người ấy có chức vụ, ta phải tỏ ra tôn kính, chứ đừng
tỏ cử chỉ suồng sã, kiểu cá mè một lứa.