BÀI GIẢNG
ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG THANH TẨY VÀ NÂNG PHẨM GÍA CON NGƯỜI
Trong Chúa nhật trước (2/Vọng/A),
ông Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người hãy tin vào Đức Kitô Giêsu, để được Ngài
dùng Thánh Thần và lửa thanh tẩy cho. Cuộc thanh tẩy ấy không phải chỉ là thanh
tẩy tội lỗi, mà nhất là thanh tẩy niềm tin của con người mang danh “Đạo gốc”,
thuộc gốc tổ Adam, Eva, chứ không thuộc về gốc Giêsu-Maria. Ai khao khát được thanh
tẩy, cần phải được Thánh Thần dẫn đi bốn bước :
- Tin vào gía trị ơn cứu độ.
- Sống niềm tin.
- Sóng gío của niềm tin.
- Tin rằng người Kitô hữu cao cả hơn
ông Gioan Bt.
I- TIN VÀO GÍA TRỊ ƠN CỨU ĐỘ.
Ngôn
sứ Isaia trong Bài đọc I đã loan báo hiệu quả về ngày Thiên Chúa ra tay cứu độ
nhờ Đức Kitô Giêsu thực hiện – làm ứng nghiệm –trong Hội Thánh Ngài.
1. Đức Giêsu biến dữ ra lành, chết ra sống. Ngài làm ứng nghiệm lời ngôn sứ
Isaia: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng
khô cỏ cháy, vùng đất hoang (sào huyệt của ác thần, chỉ có sự chết), hãy mừng rỡ trổ bông,hãy tưng bừng nở hoa
như khóm huệ,và hân hoan múa nhảy reo hò” (Is 35,1).
Thực
vậy, chính Đức Giêsu đã làm cho con gái ông Giairô lên 12 tuổi vừa mới chết
được sống lại (x Mc 5,21t) ; hoặc con trai bà góa thành Naim, mới chết trong
ngày, người ta đang khiêng đi chôn, Đức Giêsu cũng cho anh chỗi dậy (x Lc
7,11t) ; đặc biệt anh Ladarô, dù chết thối bốn ngày cũng được Ngài cho phục
sinh. Do đó Ngài đã nói với Mátta – chị của ông Ladarô : “Bất
cứ ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy,
sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Thực ra ba lần Đức Giêsu cho người
chết sống lại như thế, đó mới là dấu chỉ sự phục sinh vào ngày cánh chung mà
Chúa sẽ thực hiện nơi mọi kẻ tin vào Ngài.
2.
Đức Giêsu là sức mạnh của ta : “Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi,kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường
tráng. Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo
đảo.Nhưng những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim
bằng, họ tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân”
(Is 40,29-31).
Thực
vậy, chính Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu gọi : “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,
tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Ai được Đức Giêsu trợ giúp đều
nói được như thánh Phaolô : “Tôi có sức
chịu đựng mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4,13). Và có quyền
động viên mọi người : “Mọi âu lo, anh em
hãy trút cả cho Chúa, vì Ngài chăm sóc anh em” (1Pr 5,7).
3-
Chỉ có Đức Giêsu mới làm cho ta hết mọi
sợ hãi. Đúng như lời ngôn
sứ Isaia thúc bách kẻ bạc nhược: “Can đảm
lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi ; sắp tới ngày báo phục,ngày Thiên
Chúa thưởng công,phạt tội.Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35,4 : Bài đọc
I).
Thực
vậy, chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh mới có quyền nói với các môn đệ : “Nơi thế gian, anh em sẽ phải khốn quẫn,
nhưng hãy vững tâm, đừng sợ, Ta đã thắng thế gian !” (Ga 16,33).
Đọc
lại lịch sử của Hội Thánh thời sơ khai trong sách Tông Đồ Công Vụ, các Tông Đồ
bị ra tù vào khám, bị đánh đòn, bị ném đá như cơm bữa, có lần ông Phaolô bị ném
đá, người ta tưởng đã chết, nên lôi xác ông vất bỏ ngoài thành! Thế mà khi hồi
tỉnh, ông càng hân hoan tiếp tục lên đường truyền giảng Tin Mừng (x Cv 14).
4.
Đặc biệt nhất là
chỉ nhờ Đức Giêsu mà mọi hối nhân được ơn tha tội
Ông Gioan Bt sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu : “Ngài có phải là Đấng giải phóng người công chính thoát ách thống trị
của bạo lực không?” (Mt 11, 2-3 : Tin Mừng). Đức Giêsu cho họ thấy trước
mắt việc Ngài làm : “Mù được thấy, què
bước đi, cùi được thanh sạch, điếc được nghe, chết sống lại, kẻ nghèo được đón
nhận Tin Mừng”, tức là Ngài đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia (Is 35,5-6.10
: Bài đọc I). Đối với quan niệm của người Do Thái : người được chữa lành bệnh phải
hiểu là được Chúa tha tội (x Mc 2, 1-12 ; Ga 9). Đức Giêsu bảo các môn đệ ông
Gioan sai đến: “Hãy về thuật lại cho ông
Gioan những điều mắt thấy tai nghe như thế. Và phúc cho ai không vấp ngã vì tôi
!” (x Mt 11,4-6 : Tin Mừng). Để mọi người xác tín rằng : Đức Giêsu chính là
Đấng Mêsia mà các ngôn sứ đã loan báo, Ngài không đến diệt kẻ ác, mà Ngài muốn
cứu nó, nếu chúng biết sám hối tội, xin Ngài thương xót. Vậy “lạy Chúa, xin đến cứu chúng con” (Is
35,4 : Đáp ca).
II- SỐNG NIỀM TIN NHƯ ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
Hội
Thánh muốn ta noi gương đời sống Đức Tin của ông Gioan Bt :
1.
Sống khiêm nhường.
Vì ông không tìm vinh quang cho
mình mà chỉ lo làm vinh danh Chúa Giêsu, như lời ông nói : “Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại”
(Ga 3,30).
2. Sống cương trực.
Dù ông Gioan biết vua Hêrôđê là kẻ
gian ác, đến nỗi ông giết cả vợ con chỉ vì nghe tin đồn rằng họ đang bày mưu
tính kế tiếm quyền ông! Thế mà ông Gioan lại dám vào thẳng cung điện vua để
ngăn cản ông ta không được cướp vợ của anh mình, dù ông Gioan biết rằng vua Hêrôđê
sẽ không tha mạng cho ! (x Mt 14,3-12)
Như thế ông Gioan rất xứng đáng
được Đức Giêsu khen: “Ông không như cây
sậy rung trước gío” (Mt 11,7b : Tin Mừng), tức là ông không khoan nhượng
cho ai phạm tội, không thỏa hiệp với bạo chúa để được sống, cũng không sống
kiểu : gío chiều nào ngả theo chiều đó, để ton hót nịnh bợ, luồn cúi, kiếm chác
danh vọng đời này !
3. Sống đơn giản.
Ông Gioan Tẩy Giả tuy là con một
gia đình tư tế giàu có ở Giêrusalem, nhưng ông sống rất đơn giản :
- “Mặc áo lông da thú” : Ông muốn minh chứng mình là người được Chúa
thương, đúng với tên Gioan, tên mà thiên thần đã ra lệnh cho cha mẹ ông đặt cho
(x Lc 1,13). Như thuở xưa Chúa thương Adam, Eva, Ngài may áo da thú mặc cho họ (x
St 3,21).
- “Ăn châu chấu và mật ong rừng” (Mt 3,4).
Mật ong rừng đó là nước nho khô hay nhựa cây tây hà liễu (tamaris). Ông sống
nghèo như thế để biểu lộ Chúa thương ông hơn ngôn sứ Êlya, vì lòng nhiệt thành
đối với sứ mệnh Chúa trao, để bảo vệ danh
Giavê, ngôn sứ Êlya đã sát hại các tư tế của nhà vua đang tế lễ thần Baal trên
núi Carmel, nên bị vua rượt bắt, ông vội chạy trốn, Chúa sai thiên thần đưa
chiếc bánh lùi và chóe nước cho ông dùng, lương thực đơn giản thế thôi, để có
sức tiếp tục lên đường (x 1V 19,1-8).
Mặt khác, những nhu cầu đời sống
ông rất đơn giản như vậy, là để nêu gương chia sẻ như lời ông kêu gọi mọi người
: “Ai có hai áo hãy chia cho người không
có, và ai có của ăn cũng hãy làm như vậy”
(Lc 3,10-11).
Bởi thế ông Gioan đáng được Đức
Giêsu khen trước mặt mọi người : “Kìa
những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra
xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn
hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này
Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. "Tôi nói thật với anh em: trong số
phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả.”
(Mt 11,8b-11a : Tin Mừng).
Vậy có sống khiêm nhường, cương
trực, nhu cầu đơn giản như ông Gioan Bt mới xứng danh là ngôn sứ của Chúa, để
được: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi,sai tôi
đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Is 61,1 : Tung Hô Tin Mừng).
III- SÓNG GIÓ CỦA NIỀM TIN.
Khai
mào thời Tân Ước, chỉ có ông Gioan là người được biết về Đức Giêsu hơn ai hết,
nhưng sự hiểu biết của ông vẫn còn bị giới hạn dưới cái nhìn theo cá tính, vì
ông thích dựa vào lời ngôn sứ Malaki tiên báo về sứ mệnh Đấng Cứu Thế : “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi
Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của
thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi
và tinh luyện chúng như vàng, như bạc. Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là
những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính” (Ml 3,2-3).
Do
đó, khi ông Gioan giới thiệu Đức Giêsu cho người khác,ông dựa vào lời ngôn sứ
Malaki đã loan báo mà đe dọa dân : “Cái
rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và
quăng vào lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê
sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa
không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3,10.12)
Nhưng
khi ông Gioan đụng chạm vào thực tế: bị vua Hêrôđê nhốt trong tù. Rõ ràng Hêrôđê
mới chính là cây không trái, lại không bị diệt, mà hắn lại sắp chém đầu ông,
làm ông hốt hoảng, nên sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu : “Ngài có phải là Đấng phải đến (như lời tôi loan báo), hay tôi phải đợi
Đấng khác ?” (Mt 11,3 : Tin Mừng). Hỏi như thế với hàm ý : Tôi đã giới
thiệu Ngài như ngôn sứ Malaki báo trước : Ngài không khoan nhượng kẻ ác, tại
sao Ngài không diệt kẻ ác để cứu tôi là người bị áp bức ?!
Như
vậy là ông Gioan đã không đọc hết các lời ngôn sứ đã nói về Đấng Mêsia, hay ông
chỉ thích dựa Lời Sách Thánh nào hợp với tính tình nóng bỏng của ông! Nhưng Đức
Giêsu muốn mọi người phải biết rằng : Dù Ngài có là Đấng
Phán Xét như ngôn sứ Malaki đã loan báo, thì Ngài chỉ phán xét Satan, khai trừ
tội lỗi khỏi lòng người. Nhưng Ngài còn là Đấng nhân từ : “Tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao
bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh
phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng
trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi.Người không cứ tội ta mà xét xử,không
trả báo ta xứng với lỗi lầm.Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa
thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta
đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta” (Tv 103/102, 3a-5.8-12)
Bởi thế Lòng nhân từ này được Đức
Giêsu thể hiện nơi các bệnh nhân : Ngài làm cho họ lành mạnh là dấu Ngài tha
tội, Ngài lấy chứng từ này mà bảo các môn đệ của ông Gioan : “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những
điều mắt thấy tai nghe… phúc thay người
nào không vấp ngã vì tôi.” (x Mt 11,2-6 : Tin Mừng).
Rõ
ràng ông Gioan chưa biết trọn vẹn về Đấng Cứu Thế ! Bởi đó ông đã khiêm tốn,
hai lần thốt lên lời : “Phần tôi, tôi
chưa biết Ngài” (Ga 1,31.33). Nghĩa là không ai diễn tả trọn vẹn về Đức Giêsu
được, ai có nói về Ngài thì cũng chỉ như những người mù tả về con voi : Anh rờ
tai thì nói voi như cái quạt, kẻ rờ chân, thì tả voi như cây cột… Nhưng dầu sao,
ông Gioan Bt khi gặp đau khổ, ông mới đi tìm hiểu thêm về Đấng Mêsia, đó cũng
là điều chúng ta phải bắt chước ông.
Vậy
từ chuyện Đức Tin của ông Gioan Bt bị chao đảo, ta rút ra bốn hệ luận :
-
Khi
gặp khổ mới đi tìm Chúa, để bồi dưỡng Đức Tin.
-
Không
ai nắm trọn được Giáo Lý của Chúa, nên
suốt đời phải liên tục học hỏi nơi nhiều người, đặc biệt nơi các chủ chăn trong
Hội Thánh.
-
Đừng
chỉ chọn học thuộc những câu Kinh Thánh mình ưa thích, mà càng học được nhiều
thì Đức Tin càng vững vàng.
-
Đừng
hiểu Kinh Thánh theo nghĩa đen, hoặc đừng chỉ mong Chúa cất hết mọi đau khổ,
mới tin là được Chúa thương.
IV- NGƯỜI KITÔ HỮU CAO CẢ HƠN ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
Đức
Giêsu nói : “Trong số phàm nhân đã lọt
lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ hơn
trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).
Lời
xác định trên Đức Giêsu có ý so sánh ông Gioan Tẩy Giả với người Công Giáo:
A. SỞ DĨ GIOAN TẨY GIẢ CAO TRỌNG
NHẤT TRONG NHỮNG NGƯỜI DO NGƯỜI NỮ SINH RA, là vì từ thời Adam, Eva và chắc
chắn cho đến ngày cánh chung, không một người nào có mặt trên trái đất này
giống Đức Giêsu về cuộc sống trên dương thế như ông Gioan. Thực vậy, giữa Đức
Giêsu và ông Gioan từ lúc sinh vào đời cho đến lúc chết, có nhiều điểm tương
đồng rất sít sao, mà trong nhân loại không ai có được.
1- Cả Gioan, cả Đức Giêsu trước khi
được thụ thai trong lòng mẹ đều do Thiên
thần Gabriel báo tin
(x Lc 1,19 = Lc 1,26).
2- Cả Gioan, cả Đức Giêsu đều sinh ra từ đôi vợ chồng khác thường : Cha mẹ của Gioan đã gần 100
tuổi mà chưa có con, thế mà ông Dacarya lại được thiên thần báo tin cho biết :
Vợ chồng ông sẽ sinh con ; cũng thế, Đức Giêsu được sinh ra trong một gia đình
mà vợ chồng không ăn ở với nhau (x Lc 1,7 = Lc 1,34) , vì chỉ có ông Giuse sống
hướng về cánh chung : “Có vợ mà kể như
không có” (1 Cr 7,29).
3- Tên Gioan và tên Đức Giêsu đều
được thiên thần bảo cha mẹ phải đặt con mình như thế (x Lc 1,13 = Lc 1,31).
4- Thân thế ông Gioan và Đức Giêsu đều thuộc dòng tộc giàu có : Gioan là con vị tư tế ở thành
Giêrusalem ; Đức Giêsu là Con của Cha trên trời, thế mà cả hai Vị sinh ra trong
cảnh nghèo : Gioan sinh ra được nuôi dưỡng trong sa mạc (x Lc 1,80) ; Đức Giêsu
sinh ra thì mẹ Ngài lấy tã bọc đặt nằm trong máng cỏ (x Lc 2,7).
5- Ông Gioan và Đức Giêsu đều thống nhất chương trình hành động. Do đó cả hai Vị đều mở đầu sứ
mệnh bằng công thức : “Hãy sám hối vì
Nước Trời đã gần đến” (x Mt 3,2 = Mt 4,17).
6- Sứ điệp Tin Mừng của ông Gioan và
của Đức Giêsu đều nóng bỏng và dứt khoát, không khoan nhượng cho những kẻ bất lương, nhất là những kẻ không tin Đức Giêsu là
Đấng cứu độ duy nhất (x Cv 4,12). Cụ thể
:
-
Ông
Gioan nói với mọi người : “Cái rìu đã để
sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái thì bị chặt quăng vào lò lửa” (Mt
3,10). Có nghĩa là ngay hôm nay ai không tin vào Chúa Giêsu để làm việc tốt,
thì phải diệt ngay.
-
Còn
Đức Giêsu nhìn cây vả lớn, lá sum suê, Ngài đến tìm quả mà không có, dù lúc ấy
không phải là mùa trái vả, mà ngài lại lên tiếng trách nó : “Không bao giờ Ta ăn trái mày nữa !” Sáng
hôm sau, các môn đệ đi ngang qua thấy cây vả đã chết khô từ ngọn đến rễ (x Mt
21,18-19) : Cây vả lớn là dấu chỉ những người được Thiên Chúa nuôi dưỡng và
giáo dục mà hôm nay không trở nên người công chính, nhờ tin vào Chúa Giêsu (x
Gl 2,16), thì kẻ đó không thể được cứu độ.
7- Ông Gioan và Đức Giêsu đều động viên người ta chia sẻ :
-
Ông Gioan nói : “Ai có hai áo hãy chia
cho người không có một cái, và ai có của ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc
3,11).
-
Chúa Giêsu dạy : “Cho thì có phúc hơn là
lấy” (Cv 20,35)
8- Ông Gioan và Đức Giêsu đều chết vì chân lý :
-
Ông
Gioan dám lên tiếng trách vua Hêrôđê không được cướp vợ anh mình, do đó ông bị
cắt đầu (x Mt 14,3t).
-
Đức
Giêsu lên tiếng khiển trách những đầu mục Do Thái sống Đạo hình thức : Giả bộ
đọc kinh dài để nuốt chửng tài sản bà góa, làm cho người tân tòng thành con cái
Hỏa ngục gấp đôi mình, lại còn ngăn cản những ai muốn vào Nước Trời (x Mt 23).
Do đó Ngài bị treo trên thập giá (x Mt 27,23t).
B. KẺ NHỎ TRONG NƯỚC TRỜI CÒN CAO
TRỌNG HƠN ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
*Thuật
ngữ “kẻ nhỏ” trong Tân Ước luôn luôn chỉ về những người thuộc Hội Thánh, những
người được Chúa Giêsu cứu độ. Thực vậy, các Tông Đồ là những người lớn tuổi, mà
Đức Giêsu đòi hỏi họ phải trở nên trẻ nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x Mt
18,3) ; Ngài nói với các môn đệ : “Hỡi
các con thơ bé, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi” (Ga 13,33a) ;
cũng như Ngài nói : “Đừng sợ, hỡi đoàn
chiên nhỏ bé, vì Cha chúng con đã khấng ban Nước Trời cho chúng con” (Lc
12,32).
*Các
thư của thánh Gioan viết cho các giáo đoàn có nhiều người lớn tuổi, thế mà ông
luôn luôn gọi họ là : “Hỡi các con thơ bé”
(x 1Ga 2,1.12.14.18.28).
Vậy
“kẻ nhỏ trong Nước Trời lớn hơn ông Gioan
Tẩy Giả”, chính là người Công Giáo sau khi đã lãnh Bí Tích Khai Tâm, họ hơn
ông Gioan những điểm sau :
1. Ông
Gioan chỉ là chú phù rể đối với Đức Giêsu (x Ga 3,29) ; trong khi đó người Công Giáo được gọi là
Hiền Thê của Chúa Giêsu, khởi đi từ Bí Tích Thánh Tẩy (x 2Cr 11,2).
2. Ông Gioan
sinh ra bởi dòng giống Adam, Eva, thua xa người Công Giáo được tái sinh bởi
Adam cuối cùng là Chúa Giêsu (x Cv 2,38). Bởi thế Kinh Thánh nói : “Đấng
tác thánh và những người được thánh hóa cùng một nguồn gốc,cùng một xương thịt,cùng
một sự sống với Chúa Ba Ngôi, đến nỗi được đồng hóa với Chúa Giêsu ” (Dt
2,11 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20).
3. Ông
Gioan so với Đức Giêsu không đáng giá gì, nên ba lần ông nói : “Tôi
không phải là Đấng Kitô, tôi không phải là Êlya, tôi không phải là một ngôn sứ”,
như người ta đã tưởng lầm ông là thế, ông Gioan chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, và
ông tuyên bố : “Đấng đến sau tôi (Đức Giêsu),
trổi vượt hơn tôi, tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1,20-27).
Như vậy, Đức Giêsu là Số Một, ba lần không của ông Gioan đứng sau Số Một trở thành số ngàn. Rõ ràng nếu
không có số một, thì cả tỷ zéro cũng là zéro, nhưng nhờ số một mà zéro trở nên
giá trị gấp mười! Và người Công Giáo lại còn được đồng hóa với Chúa Giêsu về
nguồn gốc, về xương thịt, về sự sống (x Gl 2,20 ; Dt 2,11 ; Ga 6,57). Bởi thế
người Công Giáo còn hơn ông Gioan gấp mười lần, đến nỗi Chúa Giêsu về Trời làm
cho ai tin vào Ngài, thì chẳng những làm được như Ngài mà còn hơn nữa (x Ga
14,12). Cụ thể cả cuộc đời Đức Giêsu phục vụ đến chết, mới đưa một anh trộm
lành vào Thiên Đàng ; còn người Công Giáo mỗi khi đi dự Lễ, hiệp thông với Hội
Thánh cầu nguyện cho những người đã qua đời, thì biết bao linh hồn được về
Thiên Đàng ; hoặc Chúa Giêsu không lập một giáo đoàn nào, trong khi đó ông
Phaolô khai sinh được rất nhiều giáo đoàn…
Mặc
dù ta được cao cả hơn ông Gioan Bt, nhưng chỉ được thấy rõ trong ngày cánh
chung. Thánh Gioan nói : “Hiện giờ chúng
ta là con Thiên Chúa;nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày
tỏ.Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện,chúng ta sẽ nên giống như Người,vì
Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1Ga 3,2). Bởi đó thánh
Phaolô nói : “Chúng ta đã được cứu độ,
nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn
phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi?Nhưng nếu
chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ”
(Rm 8,24-25).
Vì
những lý do trên tưởng rằng người Công Giáo phải mừng ngày lãnh Bí Tích Thánh
Tẩy mới chính là ngày sinh nhật của mình được sinh ra trong Chúa Giêsu, và đã
được thanh tẩy tinh tuyền. Còn ngày sinh nhật bởi cha mẹ trần thế, chỉ thuộc
dòng giống Adam bị chúc dữ, vì “từ trong
lòng mẹ tôi đã là kẻ bất lương” (Tv 51/50,7). Bởi thế, lời kinh “tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng”
(Tv 139/138, 14a), chỉ thích hợp cho người Công Giáo.
THUỘC LÒNG.
Chúa ban sức mạnh cho người mệt mỏi, vì trẻ trung còn
nghiêng ngửa bổ nhào, nhưng ai trông cậy nơi Chúa, họ có sức mạnh luôn luôn đổi
mới, để tung cánh như phượng hoàng, họ đi mà không biết mỏi, chạy mà không biết
mệt ! (Is 40,29-31)
http://phaolomoi.net
Lm Giuse Đinh
Quang Thịnh