Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Nghe Nhạc Thánh Ca trên điện thoại android
Bài giảng
Ngày 18 tháng 12 - Mùa Vọng
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Gr 23,5-8
 5 Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa  -Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.  6 Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: "Đức Chúa, sự công chính của chúng ta." 7 Vì thế, này đây sẽ tới những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - người ta không còn nói như sau nữa: "Nhân danh Đức Chúa hằng sống, Đấng đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi đất Ai-cập! ",8 nhưng sẽ nói: "Nhân danh Đức Chúa hằng sống, Đấng đã đưa dòng dõi nhà Ít-ra-en lên khỏi đất phương Bắc và khỏi mọi miền đất Người đã xua họ đến, để họ được cư ngụ trên đất của họ!"
ĐÁP CA : Tv 71
Đ.        Triều đại Người, đua nở hoa công lý
            và thái bình thịnh trị đến muôn đời.  (x c 7)
1 Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
2 để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
12 Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, 13 chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.
18 Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.19 Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh, ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG :
Hall-Hall : Lạy Chúa là Thủ Lãnh nhà Israel, Ngài đã ban Lề Luật cho ông Mô-sê trên núi Sinai. Xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người. Hall.
TIN MỪNG : Mt 1,18-24
 18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

BÀI GIẢNG
CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA ĐAVID MỚI,
ĐẤNG GIẢI PHÓNG


Lý do thánh sử Mát-thêu đã ghi lại cuộc Truyền Tin cho ông Giu-se, chồng Đức Ma-ri-a (x Mt 1,18-24 : Tin Mừng), để xác tín rằng :

-          Đức Giê-su vừa là con của loài người, vừa là Con Thiên Chúa.
-          Đức Giê-su làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã báo trước về Ngài.
-          Để người ta gọi con trẻ là Emmanuel : Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta .
-          Mẹ Ma-ri-a sinh Con vẫn là một Trinh Nữ : Khuôn mẫu của Hội Thánh.
1/  ĐỨC GIÊ-SU VỪA LÀ CON LOÀI NGƯỜI, VỪA LÀ CON THIÊN CHÚA.
Ta biết 17 câu đầu của Tin Mừng Mát-thêu viết về gia phả của Đức Giê-su : “Ab-ra-ham sinh I-sa-ác, I-sa-ác sinh Gia-cóp, Gia-cóp sinh Giu-đa, … sinh Giu-se chồng của Đức Ma-ri-a, bà là Mẹ Đức Giê-su, cũng gọi là Đấng Ki-tô” (x Mt 1,1-17).
Nếu ông Mát-thêu chỉ viết như thế thì độc gỉa hiểu Đức Giê-su là con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a theo nghĩa xác thịt ! Do đó trình thuật Thiên thần Truyền Tin cho ông Giu-se nhằm xác định : Đức Giê-su là Con bởi xương thịt của Đức Ma-ri-a, đồng thời là Con Thiên Chúa. Bởi vì Ma-ri-a có thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, chứ không phải do ý muốn xác thịt của ông Giu-se và bà Ma-ri-a. Ông Giu-se chỉ là cha nuôi, người cha theo pháp luật, để Con Thiên Chúa sinh ra thuộc dòng tộc vua Đa-vít, vì ông Giu-se thuộc dòng Đa-vít. Và như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã báo trước : “Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đa-vít một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi, danh hiệu là “Đức Chúa Sự Công Chính Của Chúng Ta”. Ngài giải phóng dân Ngài như ông Mô-sê đưa dân ra khỏi ách nô lệ Ai-Cập ; như vua Kyros giải phóng cho dân Chúa khỏi ách nô lệ Babylon trở về  tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem” (Gr 23,5-8 : Bài đọc). Để “triều đại Ngài đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời”  (Tv 72/71,7 : Đáp ca).
2/ ĐỨC GIÊ-SU LÀM ỨNG NGHIỆM LỜI CÁC NGÔN SỨ ĐÃ BÁO TRƯỚC VỀ NGÀI.
Thực vậy, cuộc Truyền Tin thứ nhất của sứ thần Ga-bri-en báo cho Đức Ma-ri-a sinh Con Thiên Chúa, do quyền năng Chúa Thánh Thần. Nếu sứ thần Ga-bri-en không Truyền Tin cho ông Giu-se, thì Con Thiên Chúa không thể sinh vào đời cách tốt đẹp được ! Bởi vì lúc ấy ông Giu-se “định tâm bỏ Ma-ri-a trốn đi một cách kín đáo” (Mt 1,19-20 : Tin Mừng). Vì trước khi ông Giu-se được giao phó trách nhiệm, ông rất lúng túng khi thấy Ma-ri-a có thai. Sự lúng túng của ông Giu-se trước bào thai của Đức Ma-ri-a đã diễn tả sự bất lực của Lề Luật :
·   Nếu ông Giu-se không biết Thai Nhi do Chúa Thánh Thần, thì theo Luật ông phải tố cáo Ma-ri-a đã ngoại tình và ly hôn (x Dnl 22,13-27). Điều này ông không dám, vì ông biết Ma-ri-a là người rất nhân đức.
·   Nếu ông biết Thai Nhi đó là do Chúa Thánh Thần, cứ theo Luật ông nhận Ma-ri-a, thì đương nhiên ông là cha Đấng Cứu Thế, nhiệm vụ cao cả này, khi chưa được trao trách nhiệm, làm sao ông dám nhận ?
·   Nếu ông âm thầm trốn đi, thì đó là cách gián tiếp tố cáo Ma-ri-a ngoại tình, chắc chắn sẽ bị dân ném đá! Làm sao ông dám trốn ? Nhất là khi ông đã biết rõ Ma-ri-a có thai là do Chúa Thánh Thần !?
Rõ ràng ông Giu-se hành động cách nào cũng là có hại cho người vợ hiền và Thai Nhi vô tội! Qủa thật Luật bất lực giải quyết cho lương tâm của ông ! Bởi thế thánh Phao-lô qủa quyết : “Luật giam chúng ta trong tội !” (Gl 3,22) Trong lúc còn đang bối rối như thế thì chính tiếng Chúa nói qua lương tâm ông (được mộng báo), soi sáng cho ông phải quyết định đón Ma-ri-a về, để Con Thiên Chúa thuộc dòng Đa-vít theo pháp luật, vì “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh bởi một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.” (Gl 4,4). Nghĩa là nhờ ông Giu-se theo lệnh Chúa truyền đã đón Ma-ri-a về, nhờ vậy Ma-ri-a không bị Luật lên án, để qua đó Đức Maria cũng theo lệnh Đức Giê-su nhận ta, cho ta khỏi bị án của Lề Luật (x Ga 19,27 ; Gl 3,24), nhờ Hy Tế của Chúa Giê-su mà ông Giuse đã báo trước, vì ông được gọi là “người công chính” (x Mt 1,19), có nghĩa là ông đã dâng hiến Ma-ri-a người yêu của ông cho Thiên Chúa. Như thế, sự dâng hiến của ông Giu-se khác nào ông A-bel dâng con chiên cho Thiên Chúa và được Ngài chấp nhận (x St 4,4). Bởi lẽ hình ảnh con chiên mà ngôn sứ Nathan đã dùng để ám chỉ về một người vợ (x 2Sm 12). Nói cách khác ông Giuse dâng hiến người vợ cho Thiên Chúa, báo trước Hy Tế của Chúa Giê-su, Ngài chính là Con Chiên, làn Của Lễ trong Hy Tế mới được Chúa Cha chấp nhận. Đó là lý do mà chỉ có thánh sử Mát-thêu gọi ông Giu-se và ông A-bel  là “người công chính” (x Mt 1,19 = Mt 23,35).
3/ LÝ DO NGƯỜI TA GỌI CON TRẺ LÀ EMMANUEL.
Người ta gọi Đấng Cứu Thế là Emmanuel, viết tắt là No-en, nghĩa là “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta” (x Mt 1,23 : Tin Mừng),  báo trước sự Phục Sinh của Ngài. Vì chỉ khi Chúa Giê-su sống lại, Ngài mới nói với các Tông Đồ : “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x Mt 28,20), đồng nghĩa với “Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta”. Như vậy, tác gỉa Mát-thêu có ý nói : Con Thiên Chúa được sinh ra an toàn nhờ ông Giu-se tùng phục ý Chúa, làm cho Con Thiên Chúa ở cùng loài người để cứu chuộc nhân loại. Đúng như ý nghĩa tên Giê-su mà Thiên thần đã báo Đức cho Maria và ông Giu-se đặt cho Con Trẻ  (x Lc 1,31 ; Mt 1,21 : Tin Mừng) [Giê-su phiên âm bởi tiếng Hy-Bá là Yehôshua, hoặc Yéshua có nghĩa Gia-vê là sự cứu độ], và Ngài chỉ thực sự cứu độ khi tự quyền từ cõi chết sống lại.
4/ MẸ MA-RI-A SINH CON VẪN LÀ MỘT TRINH NỮ : KHUÔN MẪU CỦA HỘI THÁNH.
Ta biết truyền thống Do Thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một trinh nữ. Đối với họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giép-tê than khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù ! (x Tp 11, 29-40)
 Thực ra, lời ngôn sứ I-sai-a (7,14) theo nguyên bản bằng tiếng Hipri chỉ nói người nữ ấy là “Almah” có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định là còn hay mất trinh) ; nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy Lạp lại xác định người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giê-su và các Tông Đồ dùng bản văn này để giảng dạy, và sau này thánh Giê-rô-ni-mô dịch bản văn này sang tiếng La Tinh, gọi là bản văn Vulgata (bản Phổ Thông), ông cũng xác định là Trinh Nữ như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy đức đồng trinh của Mẹ Maria báo trước về Hội Thánh là Trinh Nữ, Hiền Thê của Chúa Ki-tô (x Mt 25,1t ; 2 Cr 11,2).
Tới đây, người Công Giáo có dịp đối thoại với anh em Tin Lành, khi họ dựa vào ba chứng từ trong Thánh Kinh để phủ nhận việc Đức Ma-ri-a sau khi sinh Con không còn đồng trinh. Điều  này nghịch với giáo lý Công Giáo, chúng ta phải trả lời thế nào?
+ “Đức Giê-su đang giảng dạy, Mẹ Ngài và ANH EM đến tìm” (Lc 8,20). Anh em Tin Lành hiểu đó là anh em ruột của Đức Giê-su.
Giáo lý Công giáo trả lời : Từ “ANH EM” trong tiếng Hipri (Do Thái) là Ăch hoặc trong tiếng Hy Lạp là Adelphoi, từ này vừa có nghĩa là anh em ruột, cũng có nghĩa là anh em họ, giống như tiếng Việt Nam, con chú gọi là em, con bác thì gọi là anh. Ông Lót là cháu của ông Abraham, và Abraham là chú của Lót, thế mà ông Abraham gọi cháu Lót bằng từ Adelphoi (x St 13,8 ; 14,12 ; 29,10).
Nếu Đức Giê-su còn những người anh em khác, thì không lẽ trước giờ chết  Ngài không để cho anh em ruột đưa Mẹ về nhà mình, mà Ngài lại phải nhờ ông Gio-an? (x  Ga 19,25-27).
Về mặt tín lý, Đức Ma-ri-a là khuôn mẫu của Hội Thánh, là hình ảnh Hội Thánh vẹn toàn thời cánh chung, mà Hội Thánh được Đức Giê-su ví như những cô trinh nữ đi đón chàng rể vào dự tiệc cưới (x Mt 25,1-13). Do đó, Hội Thánh tin Đức Ma-ri-a là hiện thân những cô trinh nữ khôn ngoan theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Hội Thánh được gọi là Trinh Nữ giống Đức Ma-ri-a, có nghĩa là Đức Ma-ri-a sinh Đức Giê-su là Đầu của Hội Thánh, Mẹ không liên hệ tới một người khác phái, thì Hội Thánh sinh các Ki-tô hữu là chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giê-su Phục Sinh : Cả Đức Ma-ri-a, cả Hội Thánh đều sinh Chúa Giê-su Phục Sinh cách mầu nhiệm, mà không liên hệ với một người trần thế nào.
+ Anh em Tin Lành lại vịn vào câu : “Bà Ma-ri-a đã sinh CON ĐẦU LÒNG” (Lc 2,7), mà đã sinh con đầu lòng thì có nghĩa là còn sinh những người con khác !
Giáo lý Công Giáo trả lời : Tác giả Lu-ca ghi người con đầu lòng của Đức Ma-ri-a là có ý nhấn mạnh : gia đình Nadaret rất cẩn thủ giữ Lề Luật Chúa (x Lc 2,22-40). Do đó nói đến con đầu lòng chỉ có ý nhấn mạnh : Ma-ri-a dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa theo Luật Do Thái quy định (x Xh 13).
+ Anh em Tin Lành lại dựa vào câu : “Giu-se và Ma-ri-a không ăn ở với  nhau CHO ĐẾN KHI bà sinh con” (Mt 1,25). Có nghĩa là anh em Tin Lành vẫn tin Đức Giê-su được sinh ra là do quyền năng Chúa Thánh Thần, lúc ấy Đức Ma-ri-a vẫn còn là một trinh nữ. Nhưng sau đó lại ăn ở với ông Giu-se và sinh  nhiều người con khác !
Giáo lý Công Giáo trả lời : Thành ngữ “CHO ĐẾN KHI” trong Thánh Kinh sử dụng có ý công bố một điều đã có, đang có và không bao giờ mất, như Đức Giê-su nói với các môn đệ : “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), thì không có nghĩa là Chúa chỉ ở với Hội Thánh cho đến ngày tận thế là thôi ! Mà phải hiểu rằng Chúa đã ở với Hội Thánh, đang ở với Hội Thánh và ở với Hội Thánh mãi mãi ! Do đó, “Giu-se và Ma-ri-a không ăn ở với nhau cho đến khi bà sinh con” thì phải hiểu theo nghĩa này.
Sau khi chúng ta đã tìm hiểu và suy niệm cuộc Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se, để chúng ta phải xác quyết : Dù Thiên Chúa thương chúng ta đến thế, và dù Ngài là Đấng toàn năng và giàu lòng xót thương (x Ep 2,4), nhưng Ngài vẫn cần đến Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se cộng tác : Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a đã hy sinh hưởng đời sống vợ chồng, để hoàn toàn làm theo ý Chúa : Mẹ Ma-ri-a là E-và mới không giống như E-và xưa, Mẹ hoàn toàn xin vâng nghe Lời Chúa, để quyền năng Lời Chúa hoạt động nơi Mẹ (x Lc 1,38), còn thánh Giu-se, ba lần ông mau mắn chỗi dậy làm theo ý Chúa,  để Con Thiên Chúa hai lần thoát chết, trở thành Mô-sê mới giải phóng cho muôn dân thoát satan, thoát tử thần .
a.      Mt 1,24 : Được mộng báo, ông Giu-se đã mau mắn chỗi dậy rước Ma-ri-a về nhà, để mẹ con khỏi bị ném đá, khỏi chết nhục vì Luật !
b.      Mt 2,13 : Được mộng báo, ban đêm ông Giu-se chỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Ngài trốn qua Ai-Cập, thoát khỏi bàn tay độc ác của vua Hê-rô-đê.
c.      Mt 2,20 : Được mộng báo, ông Giu-se lại chỗi dậy đưa mẹ con Ma-ri-a trở về quê nhà, để thực hiện sứ mệnh cứu dân như ông Mô-sê.
Ba lần ông Giu-se chỗi dậy làm theo ý Chúa là báo trước : Đức Giê-su con ông Giu-se sau ba ngày được an táng trong mồ, Ngài cũng chỗi dậy (Phục Sinh), để đưa cả loài người thoát sự dữ vào cõi sống hạnh phúc vĩnh hằng, giống như ông Giu-se chỗi dậy thực thi ý Chúa để làm cho Đức Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su thoát sự dữ, hầu cả hai Mẹ-Con cũng đưa cả loài người thoát sự dữ vào sự sống hạnh phúc vĩnh hằng.
Nhưng Chúa không chỉ trao trách nhiệm cho thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, mà còn muốn trao cho cả chúng ta nữa, “những kẻ đã được hiệu triệu theo Đức Ki-tô để giảng truyền sự vâng phục Đức Tin cho mọi dân tộc”(x Rm 1,6). Vì Em-ma-nu-en không chỉ ứng nghiệm nơi Thánh Gia Thất, mà còn ứng nghiệm nơi tâm hồn mọi người. Ơn này đã được tiên báo qua hình ảnh tấm lông chiên của ông Ghê-đê-ôn :
Ông Ghê-đê-ôn khi làm thủ lãnh dân Do-Thái, đang bị áp lực của quân Mê-đi-an. Ông lo lắng không biết có nên xuất chinh đánh Mê-đi-an hay xin hàng ? Ông đã cầu nguyện xin Chúa cho ông một dấu : Nếu tấm lông chiên đặt ngoài sân, qua một đêm mà tấm lông chiên đẫm sương, còn chung quanh đất khô ráo, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân. Qủa nhiên, sáng hôm sau, ông vắt được cả tô nước từ tấm lông chiên, đất xung quanh vẫn khô ráo ! Đó là dấu chỉ lần thứ nhất Thiên Chúa chiếm đoạt Ma-ri-a – trong cuộc truyền tin – để Ma-ri-a trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn dân.
Hôm sau, ông lại đặt tấm lông chiên ngoài sân, và cầu xin : Nếu Chúa ủng hộ ông xuất binh, thì cho tấm lông chiên khô ráo, còn đất chung quanh thì ướt đẫm. Qủa đúng như lời ông xin. Thế là ông hạ lệnh xuất quân chinh phạt Mê-đi-an trong chiến thắng lẫy lừng ! (x Tp 6,36-40) Đó là dấu chỉ lần thứ hai, Thiên Chúa chiếm đoạt ông Giu-se – trong cuộc truyền tin cho ông – để ông Giu-se làm cho mọi người nhận biết Lời Đức Giê-su cứu độ muôn dân. Thực vậy, từ khi Đức Giê-su bắt đầu giảng ở đền thờ Giê-ru-sa-lem (Hội Thánh) lúc lên 12 tuổi, thì sau đó không còn ai biết đến ông Giu-se nữa, vì ông đã hoàn tất nhiệm vụ của mình ! (x Lc 2,41t)
Mùa Vọng nào trong các Giáo đường cũng vang lên tiếng ca : “Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính” (x Is 45,8) trong niềm xác tín:
·        Sương trời là Ngôi Hai.
·        Tấm lông chiên là Đức Ma-ri-a (thấm sương trời).
·        Đất là thánh Giu-se và mọi người trong Hội Thánh (cũng thấm sương trời).
Vậy Đấng Em-ma-nu-en đã ở cùng Đức Ma-ri-a, ở cùng thánh Giu-se (sương đẫm lông chiên) chưa đủ bảo đảm chắc chắn ơn cứu độ cho ta, mà Đấng Em-ma-nu-en còn phải ở với tâm hồn mọi người (đất đẫm sương trời), đặc biệt nhất là lúc ta rước Lễ, mới đảm bảo ơn cứu độ cho người được Chúa thương ! Ta hãy cầu nguyện : “Lạy Chúa là Thủ Lãnh nhà Israel, Ngài đã ban Lề Luật cho ông Mô-sê trên núi Sinai, xin ngự đến mà ra tay cứu chuộc loài người” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG

Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính! (Is 45,8)


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: